Thiên Phủ Cung Tật Ách

Thiên Phủ Cung Tật Ách

(Lichngaytot.com) Cung Tật Ách là gì? Cung này phản ánh điều gì về bệnh tật và tai ách mà mỗi người gặp phải trong đời? 14 chính tinh tọa thủ mang tới tác động gì cho cung Tật Ách?

(Lichngaytot.com) Cung Tật Ách là gì? Cung này phản ánh điều gì về bệnh tật và tai ách mà mỗi người gặp phải trong đời? 14 chính tinh tọa thủ mang tới tác động gì cho cung Tật Ách?

Ý nghĩa của 14 chính tinh trong cung Tật Ách

Sao Tử Vi tọa thủ cung Tật Ách, thông thường đều chủ về bệnh tì vị, thường bị tình trạng tiêu chảy, ói mửa, đau bụng, khí trướng. Bệnh tì vị có lúc là biểu hiện của tình trạng tì thổ không vận hóa dẫn đến hấp thu không tốt, hoặc vị khí nạp không tốt gây nên vị hàn.

Tử Vi gặp nhiều sao thuộc thổ như Thiên Phủ, Tả Phù, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Tam Thai, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc, Đài Phụ, Phong Cáo thì chủ về bệnh thận hoặc cơ quan sinh dục, cũng chủ về bệnh lao do sắc dục quá độ.

Tử Vi có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về bệnh thấp hỏa, bệnh sởi, bệnh ngoài da, vị nhiệt, rối loạn tiêu hóa.

Tử Vi có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về mắt hoa, mắt mờ, mắt bị cườm nước, đau dạ dày, vị hàn.

Tử Vi có Thiên Phủ đồng độ hoặc hội chiếu, bản mệnh cũng dễ mắc các chứng bệnh dạ dày.

Tử Vi đồng cung Phá Quân, chủ về bệnh kín của phụ nữ. Thêm Kình Dương, chủ về bị phẫu thuật hoặc phá tướng, cũng chủ về nói cà lăm, thần kinh căng thẳng. Gặp các sao thuộc hỏa nặng, đề phòng bệnh hệ thần kinh. Nếu lại thêm Tứ Sát tinh cùng chiếu, chủ về thần kinh quá mẫn cảm, tâm thận bất giao, huyết khí bất hòa. Nếu các sao Sát, Kỵ, Hình thì chủ về thần kinh phân liệt.

Tử Vi, Tham Lang đồng cung, chủ về háo sắc. Nếu thêm Thiên Riêu, Hàm Trì hội chiếu, chủ về thủ dâm, bệnh lao do sắc dục quá độ. Nếu gặp Kình Dương, nam nữ mệnh đều dễ gặp vấn đề về cơ quan sinh dục. Nếu gặp Hồng Loan, Thiên Hỷ, nữ mệnh kinh nguyệt không điều hòa, huyết trắng, rong kinh, bệnh kín ở tử cung.

Tử Vi Thất Sát đồng độ, chủ về táo bón hoặc tiêu chảy, khí hư, âm khuy, đau bụng. Gặp sát tinh thì chủ về ngoại thương. Nếu gặp thêm Liêm Trinh Hóa Kỵ, nên đề phòng tai nạn bất ngờ.

Tử Vi đồng cung với Thiên Tướng, chủ về da nhạy cảm, sỏi mật, sỏi thận, sỏi bàng quang. Có thêm sát tinh thì chủ về viêm ruột thừa. Có thêm Hỏa Tinh, Linh Tinh thì chủ về hấp thu dinh dưỡng không tốt.

Tử Vi nhập cung Tật Ách, gặp thêm Thiên Hình và sát tinh, chủ về vì bệnh cần phẫu thuật.

Sao Liêm Trinh ở cung Tật Ách

Sao Liêm Trinh thủ cung Tật Ách, dễ mắc các bệnh đại tiện ra máu, lạc huyết , tâm huyết hao tổn, thiếu máu và mất ngủ. Nữ mệnh cũng chủ về kinh nguyệt không điều hòa.

Liêm Trinh là sao đào hoa thứ, vì vậy còn chủ về thủ dâm, ý dâm, di tinh, bệnh lậu, giang mai, và các bệnh về tình dục khác.

Liêm Trinh Hóa Kỵ gặp sao Sát, Hình, chủ về ung thư máu, hoặc thiếu máu bẩm sinh.

Liêm Trinh có Tham Lang đồng độ, nam mệnh chủ về mộng tinh, di tinh. Nữ mệnh chủ về đau bụng kinh, hoặc bệnh tử cung. Gặp các sao Sát, Kỵ, hình, hao và Địa Không, Địa Kiếp, thì có khả năng mắc bệnh ung thư đường sinh dục.

Liêm Trinh đồng cung Thiên Tướng, chủ về bệnh tiểu đường, hoặc sỏi bàng quang hay sỏi thận. Nếu gặp các sao đào hoa như Hồng Loan, Thiên Hỷ, Hàm Trì, Thiên Riêu thì chủ về các bệnh liên quan đến tình dục.

Liêm Trinh có Thất Sát đồng độ. Chủ về lúc bé nhiều bệnh, lao phổi, ho, ho ra máu. Nếu gặp Kình Dương thì chủ về đại tiện ra máu. Gặp Hóa Kỵ, Thiên Hình, sát tinh nặng thì chủ về ung thư ruột, hoặc tai nạn chảy máu.

Liêm Trinh Phá Quân đồng độ, cũng chủ về bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang. Nếu Hóa Kỵ và gặp thêm sát tinh thì có khả năng phải phẫu thuật, hoặc mặt có nhiều sẹo.

Dùng Đẩu Số để luận đoán bệnh tật, tai ách, không thể chỉ dùng cung tật ách của nguyên cục, mà phải tiến hành xem xét cung tật ách của từng đại hạn mới có thể suy ra để luận đoán các bệnh tật chủ yếu trong cuộc đời của mệnh tạo.

Có lúc còn phải xem xét cung tật ách của lưu niên, mới có thể đoán được sự phát triển của bệnh tình. Muốn luận đoán Đẩu Số cần phải thoát ra khỏi giới hạn của 12 cung mới có cái nhìn toàn diện và chính xác, lúc luận đoán cung tật ách càng cần như vậy hơn. Nếu chỉ căn cứ cung tật ách của nguyên cục để luận đoán, tuy có thể suy ra một số đặc trưng cơ bản về thể chất, nhưng lại dễ bỏ sót ứng nghiệm tật ách ở đại vận và lưu niên. Cho nên, muốn biết mệnh tạo có mắc bệnh gì nặng trong cuộc đời không, có bị phẫu thuật không, có bị chứng gì nguy hiểm không, thì cần phải quan Sát tinh bàn một cách xuyên suốt, bao gồm cả các cung hạn. Bất luận cung tật ách của nguyên cục ở cung độ nào, chỉ cần tìm ra nhóm "sao bệnh" thì chú ý ngay. Sau đó xem nhóm "sao bệnh" này bị các sao sát, kỵ, hình, hao xung hội ở đại vận nào, hay lưu niên nào, mà còn rơi vào cung tật ách, cung mệnh, hay cung phúc đức của đại vận hoặc lưu niên, đều có thể xem đó là thời kỳ ứng nghiệm.

1. Cung Tật Ách có cát tinh tọa thủ, như Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Bật, chủ ít tai họa; ngộ Kình Dương, Đà La, Thất Sát chủ thân thể có thương tích, mặt mày hốc hác; ngộ Tứ Sát, chủ còn nhỏ đã nhiều bệnh tật, tai nạn nguy hiểm.

2. Các cát tinh thủ trị cung Tật Ách thì tai nạn ít, nếu ngộ tứ sát, không kiếp, hình kị, tử tuyệt thì dễ gặp nhiều bệnh tật.

3. Tật Ách cung không chủ các bệnh tật do ngoại cảnh gây ra, mà chủ các tai ách, nếu cát thì suốt đời ít tai họa, nếu sát thì không tai họa là không tránh khỏi.

4. Luận về bệnh tật, trước tiên cần phải xem Mệnh cung tinh diệu miếu hãm cát hung ra sao, nếu gia tứ sát không kiếp hình kỵ thủ chiếu, lại xem thêm cung Tật Ách tinh diệu thiện ác, miếu vượng lạc hãm ra sao, đồng thời khán cung Phụ Mẫu xem cát hung, từ đó tổng hợp lại mà suy đoán tất không thể nhầm được.

5. Mệnh cung có cát tinh miếu vượng tọa thủ, tam phương tứ chính hội đacát tinh vô hung tinh, nếu cung Tật Ách hội đa hung tinh cũng không đang sợ, cũng không thể cho rằng người này thân thể bất hảo, hoặc dù có một thời gian bệnh tật thì cũng có thể nhanh chóng được chữa trị. Nếu cung Mệnh có đa hung tinh, tam phương tứ chính ít cát tinh, xem cung Tật Ách có cát tinh tọa thủ, cũng có thể cho rằng người này thân thể tốt; nếu cung Tật Ách có nhiều hung tinh, tất suốt đời đa bệnh đa tai, hoặc có bệnh mạn tính không thể trị dứt được.

6. Con người vốn có "thất tình nhục dục", thức ăn thì lộn xộn pha tạp, khí hậu thay đổi, hoàn cảnh bất lợi, làm sao có thể vô bệnh tật? Ý học hiện đại ngày hôm nay đã tiến bộ, nên không thể hoàn toàn dựa vào thuật số để đoán bệnh, chỉ làm tham kảo mà thôi.

Tử Vi thuộc thổ, chủ về âm phận, cho nên ở tạng phủ là chủ về tì (tuyến tuỵ). Cơ thể con người hấp thu dinh dưỡng là nhờ tỳ thổ làm việc, cho nên quan sát tình hình của Tử Vi ở cung tật ách có thể biết được tình trạnh hấp thu dinh dưỡng. Nếu Tử Vi là "tại dã cô quân" hay là "cô quân", đều chủ về vì tì thổ yếu khiến cho huyết khí đều thiếu.

Tử Vi gặp các sao hư, hao, Văn Xương, Văn Khúc, thì bệnh do tì thổ gây ảnh hưởng đến trường vị (đường tiêu hoá), biểu trưng là ói mửa, tiêu chảy; nhẹ thì khí trướng, khó chịu trong ngực, gặp Địa Không, Địa Kiếp là lói tim và khó thở.

Nếu Tử Vi gặp các sao phụ, tá trùng trùng, thì cần đề phòng tì thổ khí quá mạnh, hấp thu quá nhiều dinh dưỡng, ảnh hưởng đến tâm và thận. Tâm thuộc hoả, hoả bị thổ mạnh làm tiết khí; thận thuộc thuỷ, thuỷ bị thổ mạnh khắc, khiến mất quân bình, dễ bị bệnh tâm thận bất hoà; bản thân tì thổ khí quá mạnh, cũng chủ về bệnh dạ dày.

Tử Vi có các sao đào hoa đồng độ, hoặc được các sao đào hoa triều củng, chủ về sắc dục, cũng chủ về bệnh kín của phụ nữ. Nếu trong tinh bàn có các sao mắc bệnh thận hội hợp, thì có thể đoán vì sắc dục mà gây nên hư tổn.

Trong các tinh hệ Tử Vi, tổ hợp "Tử Vi, Tham Lang" là chủ về sắc dục; gặp các sao phụ, tá, cũng không giảm nhẹ đặc trưng này. Cho nên, nếu gặpSát tinh thì chủ về bệnh thận. Luận về ngũ hành, do Tham Lang thuộc dương mộc, còn thuộc thuỷ, mộc làm thuỷ bị tiết khí, mà Tử Vi thổ đến khắc thuỷ, bị khắc và tiết khí trùng trùng, vì vậy chủ về có bệnh.

"Tử Vi, Phá Quân" cũng có khuynh hướng mắc bệnh thận, Phá Quân thuộc thuỷ, đồng độ với Tử Vi, không bị thổ khắc. Nhưng khác với tính chất của "Tử Vi, Tham Lang"; do Tham Lang mộc, có thể gây ra chứng can dương thượng kháng, căn nguyên là vì sắc dục, chủ về bệnh thận hư tổn. "Tử Vi,Phá Quân" là thổ thuỷ tương khắc, vì vậy chủ về bệnh kín ở đường kinh thận, nhất là nữ mệnh chủ về bệnh kín phụ khoa.

Nếu "Tử Vi, Phá Quân" gặp sao đào hoa và Sát tinh, đây là bệnh về tính dục, cũng chủ về sẹo ngoài da; không có sao đào hoa, là tì thổ bị thấp mà gây ra bệnh ngoài da.

Tổ hợp "Tử Vi, Thiên Phủ", hai chủ tinh đều thuộc thổ đồng độ, vì vậy chủ về bệnh đường tiêu hoá (tì, vị, trường); được "trăm quan đứng chầu", thì tì thổ quá nặng, gặp sao đào hoa, hư, hao, thì cũng chủ về sắc dục.

Nếu "Tử Vi, Thiên Phủ" đồng độ hoặc đối xung với Hoả Tinh, Linh Tinh; còn gặp Vũ Khúc Hoá Kị đến hội, đây là bệnh loét đường tiêu hoá, hay đường tiêu hoá có khối u; nếu gặp thêm các tạp diệu Thiên Nguyệt, Thiên Hư, Âm Sát, thì có khuynh hướng phát triển thành bệnh ung thư.

Tổ hợp "Tử Vi, Thiên Tướng", do Thiên Tướng thuộc thuỷ, nên chủ về tiểu đường, sỏi thận, sỏi bàng quang, tức bệnh tật ở hệ thống "thuỷ đạo". Gặp Địa Không, Địa Kiếp, có thể là bệnh tuyến tiền liệt. Gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, đây là tì thổ bị thấp, phát triển thành dị ứng da, như nổi mề đay.

Nếu "Tử Vi, Thiên Tướng" hội Vũ Khúc Hoá Kỵ, đây là điềm tượng phải phẩu thuật, đặc biệt chủ về mỗ thận; nhưng có lúc lại là điềm tượng ung thư xương, cần phải xem xét kỹ các tạp diệu mà định. Hễ gặp các tạp diệu Thiên Đức, Âm Sát, Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Thiên Nguyệt, Kiếp Sát, đều có thể là bệnh ung thư.

"Tử Vi, Thất Sát" chủ về tì thổ không nuôi dưỡng phế kim, cho nên chủ về việc thu nạp dinh dưỡng không tốt, ảnh hưởng đến phế tạng hoặc hệ hô hấp. Nhưng phế và đại trường có quan hệ biểu lý, cho nên cũng có thể phát triển thành bệnh đường ruột (đại trường).

"Tử Vi, Thất Sát" gặp Vũ Khúc Hoá Kỵ, nên đề phòng bị thương té ngã; gặpLiêm Trinh Hoá Kỵ, là huyết chứng, hoặc là sự cố bất trắc có chảy máu. Nếu sao đào hoa trùng trùng, mà Liêm Trinh Hoá Kỵ, đây là bệnh về tính dục, hoặc bệnh về máu mủ.

"Tử Vi, Thất Sát" gặp Sát tinh, chủ về do vị thu nạp dinh dưỡng quá mạnh nên gây ra bệnh trường vị (bệnh đường tiêu hoá). "Tử Vi, Thất Sát" có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ, thì đây là chứng loét.

Hễ tinh hệ Tử Vi có Kình Dương đồng độ, lại gặp Thiên Hình, đều chủ về phẫu thuật hoặc vật lý trị liệu. Tinh hệ Tử Vi đồng độ với Kình Dương, chủ về bao quy đầu quá dài; nữ mệnh chủ về bệnh kín âm lãnh.

Thiên Cơ thuộc mộc, chủ về tạng can (gan), còn chủ về tứ chi, nhất là các ngón tay, ngón chân (đây là lấy nhánh, cành cây ví với tay chân). Cho nênThiên Cơ lạc hãm, lại gặp Sát tinh, thì chủ về tay chân bị thương. Nếu nhập miếu mà gặp Sát tinh, thì phần nhiều chủ về bệnh gan.

Can mộc có thể khắc tì thổ, cho nên khi Thiên Cơ quá vượng (như Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa), sẽ chủ về can dương thượng kháng, dẫn đến vị thu nạp dinh dưỡng không tốt.

Thiên Cơ thủ cung tật ách, cũng chủ về lúc bé bị bệnh kinh phong. Thiên Cơ gặp các sao sát, kỵ trùng trùng, sẽ chủ về lúc bé bệnh tật. Nếu Thiên Cơ lạc hãm, sẽ chủ về bị thương, nhất là tay chân.

Thiên Cơ nhập miếu gặp Tả Phụ, Hữu Bật, có lúc ứng là ngón đôi (bàn tay hay bàn chân có sáu ngón).

Nữ mệnh Thiên Cơ thủ cung tật ách, có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chứng âm hư, cũng chủ về chứng lệch tử cung, kinh nguyệt không điều hoà, có lúc vì vậy mà dẫn đến vô sinh.

Nam mệnh Thiên Cơ thủ cung tật ách, có các sao đào hoa đồng độ, đây là điềm tượng thật thuỷ và can mộc mất điều hoà, dẫn đến tâm thận bất giao, nói theo y học hiện đại, có thể coi là rối loạn nội tiết, do đó gây ra các chứng hư tổn.

Thiên Cơ còn chủ về lo toan nghĩ ngợi, cho nên, nếu Hoá Kỵ, hoặc cóThiên Đồng Hoá Kỵ vây chiếu hay hội hợp, sẽ chủ về suy nhược thần kinh, cũng chủ về can dương thượng kháng.

“Thiên Cơ, Thái Âm”, nếu Thái Âm lạc hãm, đây là điềm tượng thận thuỷ không đủ để dưỡng can mộc, cho nên dễ có biểu hiện bệnh hệ thần kinh, nữ mệnh còn chủ về rối loạn nội tiết.

Nếu Thiên Cơ gặp Thái Âm đồng độ hoặc vây chiếu, mà Thiên Cơ và Thái Âm đều lạc hãm, đây là điềm tượng “hư” không được “bổ”. Gặp Sát tinh, đây là điềm tượng tiên thiên bất túc, âm phận và dương phận đều hư tổn, chủ về các chứng nhược, hoặc ám tật, bệnh kín.

“Thiên Cơ, Cự Môn” thủ cung tật ách, Cự Môn chủ về hệ tiêu hoá, bị can mộc khắc, thành can vị bất hoà, biểu hiện là đau bụng, khó chịu trong ngực, bụng trướng. Cự Môn Hoá Kỵ thì càng nặng; nếu Sát tinh nặng, đây là thòng dạ dày (sa bao tử), đau thần kinh dạ dày. Có các sao sát, kị lẫn lộn, sẽ chủ về đau trường vị (đau bụng gió), kiết lỵ.

Tổ hợp “Thiên Cơ, Thiên Lương” gặp Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, là điềm tượng viêm ruột thừa. gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, mà Thiên Cơ Hoá Kỵ thì chủ về đau thần kinh dạ dày, hoặc loét dạ dày; nếu thêm các tạp diệu không cát tường, có thể phát triển thành ung thư dạ dày; nữ mệnh cũng chủ về ung thư vú. “Thiên Cơ, Thiên Lương” gặp các sao sát, kỵ, mà có các sao đào hoa, Văn Xương, Văn Khúc tụ tập, lại gặp thêm các tạp diệu hư, hao, hình, nguyệt, nữ mệnh là ung thư tử cung, nhẹ cũng chủ về bệnh tử cung.

Hễ Thiên Cơ thủ cung tật ách, đều không ưa Kình Dương, Thiên Hình đồng độ, chủ về phẫu thuật dạ dày hay đường ruột; nếu có Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt đồng độ, thì đây là điềm tượng trùng sán, thường có khuynh hướng gan nhiễm ấu trùng (Clonorchiasis), lúc đồng độ với Thiên Lương càng dễ ứng nghiệm.

Tổ hợp “Thiên Cơ, Thiên Lương”, đối với nữ mệnh lại chủ về dễ sinh thiếu tháng, sinh khó; có Hoả Tinh, Thiên Mã đồng độ thì càng đúng.

Nếu “Thiên Cơ, Thiên Lương” hội hợp với Thái Âm Hoá Kỵ, Thiên Cơ ắt sẽ Hoá Lộc, Thiên Lương cũng sẽ đồng thời Hoá Quyền, những sao cát hoá này không đủ sức hoá giải bệnh tật. Do Thái Âm Hoá Kỵ, nên thường biểu hiện chứng âm hư dương kháng, ở tuổi vãn niên, biểu hiện là thị lực và thính giác đều suy thoái, còn dễ trúng phong, dẫn đến bại liệt tay chân.

Thái Dương thuộc hoả, là kinh Dương Minh, cho nên lúc Thái Dương nhập miếu sẽ chủ về kinh Dương Minh hoả thịnh, dễ choáng ngất, đau đầu kinh niên, đây là chứng huyết áp cao.

Thái Dương là thuộc Ly hoả, cho nên còn chủ về mắt. Hễ Thái Dương thủ cung tật ách, ắt sẽ có bệnh tật ở mắt, như cận thị, loạn thị, loà mắt,v.v…Thái Dương thủ cung tật ách rất kỵ ở cung Ngọ, vì ánh sáng của Thái Dương quá thịnh; cũng không ưa ở cung Tuất, ngại mặt trời đã lặn về tây, đều chủ về bệnh tật ở mắt. Thái Dương thủ cung tật ách gặp Sát tinh, thường chủ động phẫu thuật ở bộ phận mắt; gặp các sao sát, kỵ trùng trùng, lại còn có các sao Thiên Hình, Thiên Nguyệt, Địa Không, Địa Kiếp, Phục Binh, Phỉ Liêm hội hợp, thường chủ về mù loà; đặc biệt rất kỵ hội hợp với Văn Xương, Văn Khúc Hoá Kỵ.

Kinh Dương Minh hoả thịnh sẽ ảnh hưởng đến kinh phế và kinh đại trường, cho nên chủ về bệnh đường hô hấp, hoặc đại tiện táo kết (táo bón), từ đó có thể dẫn đến bệnh trĩ, đại tiện ra máu. Có Đà La đồng độ, phần nhiều chủ về bệnh ở kinh phế, có Kình Dương đồng độ thì chủ về bệnh ở đại trường. Theo lý luận của Đông y, phế và đại trường có quan hệ biểu lý, cho nên có liên quan đến hai cơ quan này, nhưng cũng có sự phân biệt.

Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” ở cung Mùi và cung Thìn, chủ về kinh Dương Minh hoả thịnh mà âm phận không đủ. Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” ở cung Sửu và cung Tuất, phần nhiều chủ về chứng hư dương thượng kháng. Trường hợp trước là rối loạn nội tiết, trường hợp sau là đau đầu kinh niên hoặc thiên đầu thống. Rất kỵ Thái Dương Hoá Kỵ hoặc Thái ÂmHoá Kỵ, đều chủ về bệnh mắt, tật ở mắt, hoặc ở kinh can (gan) và đảm (mật).

Nếu “Thái Dương, Thái Âm” đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, gặp Sát tinh chiếu, còn hội Thiên Hình, Thiên Thương, chủ về gù lưng, Sát tinh nhẹ thì lưng khòm, cũng chủ về bệnh uốn ván.

Bốn sao Thái Dương, Thái Âm, Văn Xương, Văn Khúc giao hội, mà Văn Xương, Văn Khúc có một sao hoá làm sao kỵ, cũng chủ về bệnh tật ở mắt.

Nếu bốn sao Thái Dương, Thái Âm, Tả Phụ, Hữu Bật giao hội, mà “Thái Dương, Thái Âm” có một sao hoá làm sao kỵ, sẽ chủ về mắt to, mắt nhỏ, hoặc thị lực của hai mắt mất quân bình.

Sáu sao Thái Dương, Thái Âm, Văn Xương, Văn Khúc, Hoả Tinh, Linh Tinh giao hội, lại gặp thêm các sao sát, kỵ, hình, và Thiên Nguyệt, Âm Sát, Hoa Cái, đây là điềm tượng rối loạn nội tiết nghiêm trọng, trường hợp nặng thì bộ phận nào đó trên cơ thể bị biến dạng, hoặc có cơ quan sinh trưởng không bình thường, bị dị dạng (như hẹp van tim, v.v…), hoặc bán thân bất toại.

Tổ hợp sao “Thái Dương, Cự Môn”, không ưa Thái Dương lạc hãm, chủ về dương phận không đủ, biểu hiện là hạ đường huyết, huyết áp thấp, hoặc tay chân lạnh, và các chứng nhược.

Nếu Thái Dương nhập miếu, có Sát tinh, là bệnh ở khoang miệng, thực quản; cũng dễ bị đau đầu kinh niên, huyết áp cao, đường huyết cao.

Nếu Cự Môn Hoá Kỵ, đây là hoả đốt kim bị thương, dễ mắc bệnh đường hô hấp; gặp Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, đây là điềm tượng tràn khí phối (pulmonary emphysema).

“Thái Dương, Cự Môn” đồng cung với Đà La, Thiên Hình, Thiên Nguyệt, cũng dễ bị bán thân bất toại.

Tổ hợp “Thái Dương, Thiên Lương” rất dễ biến thành rối loạn nội tiết, như bướu cổ. Nếu có các sao sát, kỵ trùng trùng hội hợp; có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ; gặp các sao Thiên Hư, Âm Sát, Thiên Nguyệt, Đại Hao, Thiên Đức, Thiên Hình, nữ mệnh chủ về bệnh viêm tuyến vú cấp tính, ung thư vú, đàn ông chủ về viêm dạ dày cấp tính, ung thư dạ dày.

“Thái Dương, Thiên Lương” cũng chủ về bệnh tim và bệnh ở não bộ, nhưng tính chất lại khác với tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm”. Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” là tâm thận bất giao, âm dương mất điều hoà, dẫn đến rối loạn nhịp tim, mất ngũ, gây ra bệnh tim (người xưa cho rằng bệnh ở não bộ cũng thuộc tạng tâm); còn tinh hệ “Thái Dương, Thiên Lương” thì bệnh do cơ quan gây ra, như tắt nghẽn mạch máu (vascular thrombosis) là một ví dụ.

“Thái Dương, Thiên Lương” có Sát tinh, cũng chủ về ăn uống trúng độc, hoặc sử dụng ma tuý, trường hợp gặp các sao Hoả Tinh, Linh Tinh, Âm Sát, Thiên Nguyệt, Thiên Hư, Đại Hao là đúng.

Vũ Khúc thuộc kim, chủ về bệnh đường hô hấp, kim có khí “tiêu sát”, cho nên chủ về tổn thương, nhất là tổ hợp “Vũ Khúc, Thất Sát”. Hễ Vũ Khúc thủ cung tật ách, có các sao Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, đều có khuynh hướng bị phẫu thuật hoặc tổn thương. Vũ Khúc đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh cũng chủ về bị thương do kim loại gây nên.

Vũ Khúc đồng cung với Hoả Tinh, Thiên Mã, Thiên Khốc, Thiên Hư, chủ về chảy máu mũi; gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về các bệnh như viêm khí quản, bệnh lao; Sát tinh nhẹ là chủ về chứng ho.

Vũ Khúc thủ cung tật ách, cũng chủ về lúc bé dễ bị ho gà (chincough), vãn niên thì dễ bị chứng phong đàm.

Nếu Vũ Khúc đồng độ với Kình Dương, Đà La, lại có Hoả Tinh, thì hoả làm kim bị tổn thương, chủ về bệnh đường hô hấp; nếu Vũ Khúc lại Hoá Kỵ, còn hội tạp diệu không cát tường, thì chủ về ung thư phổi, hoặc khí quản bị bệnh nghiêm trọng; có Thiên Mã đồng độ, đề phòng bệnh ung thư di căn.

Các tổ hợp sao có khuynh hướng mắc bệnh ung thư, có khối u, loét, là “Vũ Khúc, Thất Sát” và “Vũ Khúc, Phá Quân”. Kỵ nhất là đồng cung với Hoả Tinh, Thiên Mã; Vũ Khúc Hoá Kỵ; hoặc gặp các tạp diệu Thiên Đức, Thiên Thương, Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Âm Sát, Kiếp Sát.

“Vũ Khúc, Thất Sát” còn chủ về chứng sốt bại liệt ở trẻ em, chứng chó dại. “Vũ Khúc, Phá Quân” thì chủ về bệnh răng, nhất là nha chu.

Lưu niên mà gặp cung hạn tật ách do tổ hợp “Vũ Khúc, Thất Sát” giữ cung, thì nên đề phòng tai nạn bất trắc gây tổn thương, như cây đè, sét đánh (ở thời hiện đại có thể là điện giật), còn chủ về vì bị trộm cướp mà bị thương.

Tổ hợp “Vũ Khúc, Thiên Phủ” gặp sao kỵ và Sát tinh, là chủ về nạn sông nước, nhưng cũng chủ về bệnh hen suyễn, kéo đàm, tràn khí phổi (pulmonary emphysema).

Hai tổ hợp sao “Vũ Khúc, Thiên Tướng” và “Vũ Khúc, Phá Quân” nếu gặpSát tinh, còn chủ về bị phá tướng, đề phòng tai nạn té ngã bất trắc và bị nhiễm trùng, nhất là ở bộ phận mặt.

“Vũ Khúc, Thiên Tướng” còn chủ về bị thương có sẹo, bị phẫu thuật, hoặc đau ruột non (tiểu trường).

“Vũ Khúc, Thiên Tướng” đồng độ, chủ về bị phá tướng ở hàm dưới, chân tóc hoặc đầu lưỡi.

“Vũ Khúc, Thiên Tướng” cũng chủ về ám tật, bệnh kín, nhất là nữ mệnh nên đề phòng bệnh tử cung và đường sinh dục.

Vũ Khúc Hoá Kỵ, gặp Thiên Tướng đồng độ hoặc vây chiếu, lại gặp thêm Hoả Tinh, Linh Tinh, Thiên Mã, Địa Không, Địa Kiếp, đây là điềm tượng ruột có khối u, có thể dẫn đến bệnh ung thư, nhẹ thì viêm đại tràng.

Những trường hợp tổ hợp “Vũ Khúc, Thiên Tướng” đối nhau với Phá Quân, hoặc tổ hợp “Vũ Khúc, Phá Quân” đối nhau với Thiên Tướng, nếu gặp các sao sát, kỵ, hình, hao và sao ác trùng trùng, có lúc có thể phát triển thành bệnh xương tuỷ, hoặc thậm chí là ung thư máu.

Thiên Đồng thuộc thuỷ, cho nên chủ về bệnh bàng quang, bao gồm các bệnh ở hệ bài tiết, như thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái, bệnh lậu, viêm niệu đạo, bệnh thận.

Do thuỷ làm kim tiết khí, nên lúc Thiên Đồng đồng cung với Đà La thì chủ về bệnh khí quản, ống phế quản (bronchia, phân nhánh của khí quản).

Thiên Đồng chủ về hưởng thụ, nếu Hoá Kỵ, sẽ chủ về tiêu chảy. Nếu Thiên Đồng hội hợp với Thái Âm thì chủ về âm hư, biểu hiện là tiêu chảy thuộc hư chứng, kiết lị; có các sao đào hoa đồng độ thì chủ về mộng tinh, di tinh, hoặc tiểu đêm; thảy đều chủ về thận khí bất túc.

Thiên Đồng đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, nếu Thiên Đồng lạc hãm, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, đây là điềm tượng bàng quang, niệu đạo bị viêm, hoặc bệnh tuyến tiền liệt; gặp Thiên Nguyệt thì thận khí tiên thiên bất túc, dễ bị nước tiểu đục (albuminuria, anbumin niệu bất thường).

Thiên Đồng đồng cung với Thiên Mã, chủ về khí hư, nếu lại gặp Sát tinh, đây là điềm tượng khí suy, hư tổn, dễ bị các chứng nhược.

Tổ hợp sao “Thiên Đồng, Thái Âm” chủ về thấp khí, có thể phát triển thành thuỷ thũng, bụng trướng, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ chủ về bệnh do thấp hoả gây ra, dẫn đến tứ chi đau nhức.

Nếu Thái Âm Hoá Kỵ, đây là chứng âm hư hoặc thuỷ tràn làm mộc trôi, dẫn đến viêm gan cổ trướng, phép điều trị là phải củng cố gan thận.

Tính chất cơ bản của “Thiên Đồng, Cự Môn” là “đường, ống, dây” cho nên chủ về bệnh phổi, khí quản, thực quản; cũng chủ về đau thần kinh (vì thần kinh là “đường, ống, dây” vi tế nhất trong cơ thể). Nếu có các sao sát, kỵ, hình, hao tụ tập, có thể phát triển thành bệnh xương tuỷ hoặc bệnh tăng bạch cầu.

Trong các tình hình thông thường, “Thiên Đồng, Cự Môn” gặp Sát tinh, hoặc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, đều chủ về xương cốt biến dạng, thoái hoá, hoặc tăng sinh, dẫn đến chèn ép dây thần kinh, làm đau nhức, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ thì càng nặng. Nếu có Thiên Hình, Thiên Nguyệt đồng độ, thì có thể là bệnh tật suốt đời, như bệnh về xương tuỷ bẩm sinh.

Đối với tinh hệ “Thiên Đồng, Thiên Lương” cổ nhân cho rằng chủ về bệnh ở phần dưới (hạ tiêu), tức hệ bài tiết và bệnh đường sinh dục, trường hợpThiên Đồng Hoá Kỵ thấy ứng nghiệm nhiều. Nếu gặp Sát tinh, nhất là gặp Hoả Tinh, Linh Tinh sẽ chủ về đau tức vùng gan hoặc lói tim và khó thở. Nếu gặp các sao hình, sát, kỵ tụ tập, lại có thêm các sao Thiên Nguyệt, Thiên Đức, Thiên Mã thì chủ về tắc nghẽn cơ tim. Đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp cũng chủ về thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái.

Liêm Trinh thuộc âm hoả nên chủ về huyết, các bệnh liên quan đến máu.

Cổ nhân cho rằng “nam trọng tinh, nữ trọng huyết”, cho nên Liêm Trinhcũng chủ về tinh dịch. Xem có bị vô sinh không, người xưa đều xem Liêm Trinh, bất kể ở cung độ nào. Liêm Trinh ở hãm địa mà gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, nếu trùng hợp gặp ở cung tử của đại hạn, cung tật ách của đại hạn, hay cung mệnh của đại hạn, đều đoán là vô sinh.

Từ “huyết” loại suy thành “tinh” thì chủ về mộng tinh, di tinh, thủ dâm, tinh loãng.

Cho nên Liêm Trinh Hoá Kỵ là bệnh về máu huyết, như lạc huyết (xuất huyết ở miệng từ đường hô hấp hoặc dạ dày mà không ho, không ói), cũng chủ về gặp sự cố bất trắc có liên quan đến chảy máu, do đó có thể mở rộng thành bệnh phong cùi, giang mai, bệnh lậu. Ứng nghiệm ôn hoà nhất là mụn. Nếu gặp các sao hung sát nặng mà còn gặp Vũ Khúc Hoá Kỵ thì chủ về ung thư máu.

Đối với nữ mệnh lúc Liêm Trinh Hoá Kỵ có thể luận đoán là kinh nguyệt khô ít, huyết trắng, kinh nguyệt không điều hoà.

Liêm Trinh Hoá Kỵ rất kỵ bị Vũ Khúc Hoá Kỵ xung hội chủ về gặp nạn tai chảy máu. Muốn biết tai ách có nghiêm trọng nhay không cần phải xem kèm cung mệnh và cung phúc mà định.

Lý luận về bệnh tật của cổ nhân, chia làm âm, dương, biểu, lý. “Huyết” thuộc âm là thuộc “lý”, đối nhau với “khí”. “Khí” thuộc dương là thuộc “biểu”. “Biểu””lý” dựa vào nhau vì vậy Liêm Trinh cũng có thể coi là bệnh về “khí”. Cho nên Liêm Trinh cũng chủ về bệnh phổi, cảm mạo, ho, gặp Hoả Tinh, Đà La thì bệnh nặng.

Trong các tinh hệ, tinh hệ “Liêm Trinh, Thất Sát” phần nhiều chủ là chủ về bệnh đường hô hấp, thường gặp nhất là trường hợp có Sát tinh đồng độ, chủ về mũi dị ứng, viêm mũi, nếu Sát tinh nặng thì chủ về bệnh viêm phổi, có Thiên Nguyệt đồng độ thì chủ về bệnh lao, ho gà.

Tổ hợp “Liêm Trinh, Thiên Tướng” gặp các sao sát, kỵ là chủ về bệnh tiểu đường, sỏi bàng quang, sỏi mật, sỏi thận. Nếu đồng độ Hoả Tinh, Linh Tinh hoặc đồng cung Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về da bị dị ứng, nấm ngoài da, nghiêm trọng thì chủ về bệnh lupus ban đỏ. Nếu “Liêm Trinh, Thiên Tướng” bị “Hình Kỵ giáp Ấn” thì chủ về tắt nghẽn đường ống, cần chú ý các cơ quan đường ống và tuyến nội tiết, có lúc bệnh lại ở xương tuỷ.

Nếu “Liêm Trinh, Phá Quân” có Sát tinh đồng độ, còn chủ về kết sỏi, nếu có Hoả Tinh đồng độ thì chủ về tai nạn bất trắc làm bị thương, có Văn Khúc Hoá Kỵ đồng độ sẽ chủ về tai nạn sông nước.

Hễ “Liêm Trinh, Phá Quân” mà chủ về gặp bất trắc đều bị thương ở phần đầu mặt; “Liêm Trinh, Thất Sát” thì đề phòng gãy xương.

Tổ hợp sao “Liêm Trinh, Tham Lang” có các sao sát, kỵ thì chủ về bệnh ở cơ quan sinh dục, cũng chủ về bệnh thận. Nếu Liêm Trinh Hoá Kỵ và Tham Lang Hoá Kỵ đồng độ hoặc vây chiếu thì chủ về bệnh thận và bệnh máu huyết ảnh hưởng lẫu nhau, dễ xảy ra các bệnh biến khác, tình huống xấu nhất là suy thận, nhẹ thì bị chứng tăng urê-huyết.

Liêm Trinh rất mẫn cảm đối với tứ hoá và Sát tinh, cần chú ý tình huống đại hạn và lưu niên xung hội. Đại khái là rất ngại gặp Vũ Khúc Hoá Kỵ, cũng rất sợ có Kình Dương, Đà La cùng bay đến.

Vì Cô-Qủa là các sao tiết chế, giới hạn nên khi chiếu cung Giải-Ách lại thành ra hay, có nghĩa là mình ít bệnh tật, tai nạn, nhất là khi hội với Thiên-Không lại càng tốt thêm nữa. Tuy nhiên vì hai sao này vẫn có tính cách duy trì, gìn giữ nên mình vẫn dễ bị những bệnh tuy không hiểm nghèo, nhưng triền miên suốt đời mà người ngòai không nhận thấy …!?

Ví dụ : Như hội với Hóa-Kị (tượng trưng cho bộ tiêu hóa, ruột .. trong cơ thể người) lại thêm Song-Hao thì nhất định phải đeo bịnh, đau bụng, khó tiêu … vì Cô-Qủa dù là Hỏa hay Thổ cũng đều không hợp với Hóa-Kị là Thủy.

Ngòai ra những điểm nêu trên, Cô-Qủa chiếu Giải-Ách còn chủ về vần đề ưu tư trong thâm tâm, những nỗi buồn xa xôi mà chỉ có tiềm thức của mình mới nhận thấy và nhiều khi mình lại khó khăn với chính mình.

Cung Tật Ách dùng để luận đoán về sức khỏe, như dễ mắc bệnh gì, cơ quan nào trong người yếu nhất, và có bị tai nạn bất ngờ hay không, có gặp chuyện gì nguy hiểm hay không…

Cự kỵ nên tránh đò sông Phục binh, Hình Việt mắc vòng đao gươm.

Hỏa Linh Hình Việt khác nào Không bị sét đánh búa dao có ngày.

Lộc Tồn ám tật miên trường Tả Hữu Xương Khúc tai ương nên phòng.

Cung Tật Ách nói nên tình trạng sức khỏe của đương số, cũng như các xu hướng bệnh tật mà đương số có thể mắc phải. Tùy theo kết cấu tổ hợp của các tinh hệ mà có thể rơi vào các nhóm như: