Nghề Giáo Viên Tôi Đã Chọn Khi Ra Trường

Nghề Giáo Viên Tôi Đã Chọn Khi Ra Trường

Cùng tìm hiểu về mức lương, hệ số lương của nghề giáo viên mầm non trong năm 2022; cũng như tìm hiểu về công việc giáo viên mầm non có gì thú vị.

Cùng tìm hiểu về mức lương, hệ số lương của nghề giáo viên mầm non trong năm 2022; cũng như tìm hiểu về công việc giáo viên mầm non có gì thú vị.

Cách tính lương cơ bản của nghề giáo viên mầm non:

Giáo viên tại các cấp học sẽ hưởng “lương cứng” – lương chưa bao gồm phụ cấp theo công thức: Lương = Hệ số x Mức lương cơ sở.

Trong đó: Mức lương cơ sở là 1,49 triệu đồng/tháng (tại thời điểm năm 2021). Hệ số phụ thuộc vào bậc của mỗi giáo viên.

Mức lương hợp đồng nghề giáo viên mầm non là:

Đối với giáo viên hợp đồng mức lương sẽ có sự thay đổi theo từng vùng. Cụ thể:

II. Bạn cần nơi đào tạo công việc giáo viên mầm non uy tín, chất lượng?

Nhờ hiểu được những vấn đề cũng như các yêu cầu khắt khe trong công việc giáo viên mầm non, Trung tâm giáo dục Hướng Nghiệp Việt hiện đang tuyển sinh đào tạo và cấp chứng chỉ Quản lý giáo dục mầm non và cả nghiệp vụ Bảo mẫu mầm non. Với mục tiêu cung cấp các kiến thức trong quản lí giáo dục, trang bị cho người học một số năng lực để thực hiện được các nghiệp vụ cơ bản về quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Nhờ đó, các bạn sẽ được củng cố các kiến thức và năng lực cần thiết để phát triển trong công việc này.

– Tham khảo địa chỉ đào tạo ngành sư phạm mầm non ở Tphcm (Tại đây)

1. Điều kiện & đối tượng: Tham khảo

2. Thời gian: 1,5 tháng (học cả tuần, thứ 7 và CN, học tối 2-4-6 hoặc 3-5-7)

– 2 hình 3×4 (chụp không quá 3 tháng)

– 2 chứng minh thư nhân dân (thẻ căn cước)

Lưu ý: Thí sinh cần liên hệ trước với nhà trường để được thông báo chuẩn bị hồ sơ đầy đủ tránh đi lại mất thời gian công sức thí sinh.

Phụ cấp dành cho nghề giáo viên mầm non:

Tùy từng đối tượng, điều kiện làm việc mà giáo viên có thể được hưởng các khoản phụ cấp như: Phụ cấp thâm niên, phụ cấp thu hút, phụ cấp công tác tại vùng có điều kiện khó khăn, phụ cấp giảng dạy… Cụ thể:

Chọn người, chọn nghề phù hợp khi đưa lao động ra nước ngoài làm việc

Theo các chuyên gia, phải chọn người chịu học, chịu làm và chọn nghề phù hợp với từng nhóm lao động để phát huy hiệu quả của hoạt động đưa lao động ra nước ngoài làm việc.

Những năm qua, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (xuất khẩu lao động) đã có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Thu nhập người lao động làm việc ở nước ngoài đạt mức trung bình 200 triệu đồng người/năm, cao hơn nhiều so với làm việc trong nước cùng ngành nghề.

Từ năm 2016 đến nay, số lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng từ khoảng 40.000 cho đến năm cao nhất khoảng 120.000 vào năm 2019. Trong 9 tháng đầu năm 2022, Việt Nam đã đưa 113.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Số lao động Việt hiện đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là trên 650 nghìn người.

Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu lao động vẫn tồn tại nhiều vấn đề nhức nhối như lao động bỏ trốn khi ra nước ngoài, lao động trở về khó tìm việc...

Tình trạng lao động Việt qua nước ngoài rồi bỏ trốn, đi tìm việc khác xảy ra ở nhiều địa bàn như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)… Có thời gian, doanh nghiệp nước ngoài từ chối nhận lao động người Việt cư trú tại các địa phương có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao.

Lao động thất nghiệp sau khi đi xuất khẩu lao động về nước cũng là vấn nạn làm "đau đầu" các nhà quản lý. Báo cáo vừa được Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) công bố cho thấy, tỷ lệ thực tập sinh Việt Nam về nước tìm được việc làm chỉ là 26,7%; tỷ lệ tìm được công việc tương tự như ở Nhật còn thấp hơn rất nhiều.

Theo ông Lê Long Sơn, Tổng giám đốc công ty TNHH Esuhai, nguyên nhân cốt lõi của các vấn nạn trên là việc tuyển chọn người lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài chưa đảm bảo chất lượng.

Những lao động có trình độ, chịu học khi ra nước ngoài làm việc sẽ có cơ hội phát triển tốt hơn (Ảnh: CTV).

"Nếu chọn người đi nước ngoài làm việc chỉ với mục đích kiếm tiền thì họ sẽ tìm mọi cách để kiếm được nhiều tiền hơn", ông Sơn nói.

Chính vì mục tiêu kiếm tiền nên người lao động có thể bỏ trốn ra ngoài làm việc để có thu nhập cao hơn, thậm chí là làm việc phạm pháp. Khi chọn người lao động không có nền tảng học thức, họ chỉ có thể làm việc đơn giản. Khi về Việt Nam, họ làm cùng công việc trên thì thu nhập rất thấp, không chịu làm.

Theo Tổng giám đốc công TNHH Esuhai, điều quan trọng nhất là phải siết "đầu vào", việc tuyển chọn người đưa đi làm việc ở nước ngoài phải được kiểm soát, chọn người có trình độ và thái độ học tập tốt, có chí tiến thủ…

Ông Lê Long Sơn cho biết: "Esuhai không chú trọng số lượng người học mà chỉ chọn những người học có bằng cấp, chịu học… Họ không chỉ được dạy ngoại ngữ mà còn được đào tạo thái độ, tác phong làm việc, các kỹ năng mềm cần thiết để phát triển bản thân".

Ông Lê Long Sơn, Tổng giám đốc công ty TNHH Esuhai (Ảnh: Tùng Nguyên).

Theo ông Sơn, nếu người lao động giao tiếp giỏi, biết làm nhiều công việc phức tạp thì doanh nghiệp tiếp nhận lao động càng mừng vì cùng mức lương mà họ tìm được người giỏi, đảm nhận phần việc mà lẽ ra họ phải trả lương cao mới có người làm.

Khi người lao động được tin tưởng giao làm các phần việc phức tạp, có kỹ năng và ham học hỏi thì họ sẽ có cơ hội phát triển kỹ năng, được doanh nghiệp giữ lại, thậm chí là học lên cao hơn.

"Ở công ty tôi, có em sau 3 năm lao động theo chế độ thực tập sinh đã đạt được chuẩn tiếng Nhật N1, được cấp học bổng thạc sĩ tại Nhật", ông Sơn chia sẻ.

Tổng giám đốc công TNHH Esuhai nhấn mạnh: "Những lao động ham học hỏi, giỏi tiếng, biết nhiều kỹ năng trở về nước sau thời gian thực tập sinh đều là đối tượng ưu tiên tuyển dụng của các doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam, khó mà thất nghiệp. Họ có trình độ, dễ thăng tiến, thu nhập cao và có tương lai nên hiếm khi bỏ trốn hay phạm pháp".

Bà Lê Thị Mỹ Hạnh, Giám đốc công ty TNHH Đào tạo chuyển giao lao động và chuyên gia Suleco (Suleco Education), cũng đồng tình với ý kiến, phải nâng cao chất lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài. Theo bà, đã đến lúc công tác xuất khẩu lao động phải hướng đến chất lượng, kỹ năng hơn là số lượng.

Bà Hạnh chia sẻ: "Là đơn vị làm dịch vụ xuất khẩu lao động nhưng tôi chỉ mong có ngày người Việt mình không phải ra nước ngoài làm việc nữa, không ai phải tha hương kiếm sống. Khi đó, doanh nghiệp nước ngoài phải chuyển nhà máy, dây chuyền sản xuất hiện đại đến Việt Nam để sản xuất, tức là xuất khẩu lao động tại chỗ".

Theo bà Hạnh, Việt Nam từng thành công về mô hình này với ngành IT. Trước đây, người làm trong ngành phải ra nước ngoài làm việc mới có thu nhập cao. Nhưng gần đây, khi hàng loạt doanh nghiệp công nghệ Việt Nam phát triển, nhận gia công nhiều phần việc công nghệ cao cho các tập đoàn quốc tế thì IT Việt không cần phải ra nước ngoài nữa, làm trong nước vẫn có thu nhập không kém gì ở các nước tiên tiến.

Tuyển chọn lao động đạt chất lượng, chọn nghề trọng điểm để đưa lao động ra nước ngoài làm việc là mấu chốt để phát triển bền vững (Ảnh: CTV).

Ở ngành kỹ thuật, nhiều lao động ra nước ngoài làm việc cũng cố gắng học hỏi các kỹ thuật cao, nắm vững quy trình điều khiển các thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại nhưng khi về nước thì thất nghiệp vì trong nước không sử dụng những thiết bị, dây chuyền hiện đại như thế. Các tập đoàn nước ngoài không đầu tư các dây chuyền hiện đại ở Việt Nam vì nguồn nhân lực nắm vững các kỹ thuật trên quá ít, không đủ cung cấp cho dây chuyền hoạt động.

"Chúng ta cần chọn ngành ưu tiên, có khả năng chuyển giao công nghệ để đầu tư trọng điểm, tìm các thị trường phù hợp để đưa lao động đi học ngành này. Khi lượng nhân lực nắm vững kỹ thuật cao đủ lớn thì các tập đoàn nước ngoài sẽ di chuyển nhà xưởng, dây chuyền sản xuất của họ đến Việt Nam để tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao mà giá lại rẻ", bà Hạnh chia sẻ.

Giám đốc Suleco Education cũng đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có thể chú trọng đến 2 ngành là nghề hàn và nông nghiệp công nghệ cao. Theo bà, nghề hàn kỹ thuật cao khá phù hợp với lao động Việt vì đây là ngành đòi hỏi sự khéo léo, đúng ưu thế của người Việt.

Bà Lê Thị Mỹ Hạnh, Giám đốc công ty Suleco Education (Ảnh: Tùng Nguyên).

Còn ngành nông nghiệp công nghệ cao rất phù hợp với chính sách an sinh, hỗ trợ các hộ nghèo, lao động nông thôn lớn tuổi. Nguồn nhân lực này sẽ là nền tảng cho các tập đoàn nông nghiệp quốc tế đầu tư phát triển mô hình nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam, phát huy thế mạnh nông nghiệp trong nước và tận dụng nguồn lao động Việt đi làm việc ở nước ngoài trở về nước đã có kỹ năng, quen việc ở các nông trại công nghệ cao.

"Khi nhà nước chọn được nghề phù hợp và có chính sách định hướng phát triển, các doanh nghiệp dịch vụ tận dụng chính sách định hướng để phát triển thì thời gian để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nắm vững các ngành, nghề kỹ thuật cao sẽ nhanh hơn. Khi đủ nguồn nhân lực thì các doanh nghiệp đa quốc gia cũng sẽ di chuyển dây chuyền sản xuất của họ về Việt Nam", bà Hạnh nhấn mạnh.

Theo các chuyên gia, sở dĩ hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng vẫn còn nhiều vấn nạn là vì còn nhiều doanh nghiệp dịch vụ chú trọng vào lợi nhuận, tìm mọi cách để tăng số lượng lao động đưa ra nước ngoài để thu càng nhiều tiền dịch vụ càng tốt.

Những doanh nghiệp như trên không chú trọng chất lượng đầu vào, không đồng hành cùng người lao động khi họ sang nước ngoài, không quản lý được thực tập sinh nên dễ dẫn đến việc bỏ trốn, phạm pháp. Khi về nước, doanh nghiệp cũng bỏ mặc người lao động tự xoay xở tìm kiếm công việc mới nên tỷ lệ thất nghiệp cao.

Thậm chí, có doanh nghiệp còn thuê môi giới để tìm nhiều lao động có nhu cầu ra nước ngoài làm việc. Để trả phí môi giới, doanh nghiệp thu tiền dịch vụ của người lao động cao hơn mức nhà nước quy định.

Cần có chính sách khuyến khích những doanh nghiệp dịch vụ làm tốt, uy tín để cải thiện hình ảnh ngành xuất khẩu lao động (Ảnh: CTV).

Theo ông Lê Long Sơn, cơ quan quản lý nhà nước cần có chế độ chấm điểm, xếp hạng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Thang điểm có thể dựa trên 3 tiêu chí chính là uy tín của doanh nghiệp dựa trên lịch sử hoạt động; quy mô doanh nghiệp dựa trên số lượng lao động đã đưa ra nước ngoài làm việc thành công và số lượng nhân viên; tỷ lệ vi phạm của lao động như bỏ trốn, phạm pháp, thất nghiệp khi về nước…

Sau khi chấm điểm, xếp hạng các doanh nghiệp hàng năm thì cơ quan quản lý cần có chính sách ưu đãi cho những doanh nghiệp làm tốt, có thứ hạng cao để khuyến khích họ phát triển, tăng cường đầu tư chất lượng hoạt động. Đồng thời, những doanh nghiệp làm kém, thứ hạng thấp cần phải kiểm soát chặt chẽ hơn để hạn chế những sai phạm.

Bởi với quy định hành chính hiện nay, thủ tục kiểm soát đối với doanh nghiệp nhỏ chỉ đưa vài người lao động ra nước ngoài cũng y như doanh nghiệp đưa hàng trăm lao động mỗi lần. Nhiều thời điểm, sự chậm trễ trong thủ tục hành chính khiến doanh nghiệp đổ vỡ các hợp đồng lớn.

Ông Sơn đề xuất giải pháp "luồng xanh" như trong công tác hải quan: "Những doanh nghiệp làm tốt thì có thể trong quá trình xét duyệt hồ sơ học viên sẽ dễ dàng hơn, kiểm tra ngẫu nhiên tỷ lệ hồ sơ nhất định chứ không cần kiểm tra hết, thậm chí là không cần kiểm tra vì họ chưa từng sai phạm. Như vậy sẽ đơn giản hóa thủ tục rất nhiều, công việc thuận tiện hơn cho cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp".

Theo ông Lê Long Sơn, xếp hạng doanh nghiệp làm dịch vụ đưa lao động ra nước ngoài làm việc sẽ giúp phát triển doanh nghiệp làm tốt, hạn chế doanh nghiệp làm kém (Ảnh: CTV).

Ông Sơn cũng đề nghị cơ quan quản lý lao động ngoài nước có thể tham khảo quy định chấm điểm, xếp hạng doanh nghiệp của Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam (Vamas) hiện đang áp dụng. Hoặc cơ quan nhà nước có thể phối hợp với một tổ chức độc lập như Vamas để làm công việc này.

Khi cơ chế xếp hạng, khuyến khích doanh nghiệp làm tốt, hạn chế doanh nghiệp làm kém đi vào nề nếp thì chất lượng hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng sẽ ngày càng tốt hơn, các vấn đề nhức nhối hiện nay sẽ không còn "đất sống".

Vừa qua, tại phiên họp toàn thể Ủy ban Xã hội của Quốc hội tại TPHCM, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung cũng cho biết, về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và quản lý lao động ngoài nước, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật số 69/2022/QH14) là luật tiến bộ nhất. Tuy nhiên, việc tổ chức tuyên truyền và thực hiện chưa thấu đáo, một số tồn tại cần khắc phục.

Tới đây, việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài sẽ theo hướng có chọn lọc theo hướng có lợi nhất cho người lao động. Bộ sẽ tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trước khi đưa đi nước ngoài làm việc để học tập kinh nghiệm, sau này trở về phục vụ đất nước.

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung thăm hỏi, động viên và lắng nghe tâm tư của lao động Việt Nam đang làm việc tại Nhật Bản (Ảnh: Tiến Tuấn).

Trước đó, nhân dịp chuyến thăm và làm việc tại Nhật Bản, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cùng lãnh đạo nhiều Bộ, ngành ở Nhật Bản cũng đã đưa ra nhiều giải pháp giúp định hình lại các chính sách đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại Nhật Bản một cách hệ thống hơn, bài bản hơn trong thời gian tới.

Làm việc với Bộ trưởng Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Kato Katsunobu, ông Đào Ngọc Dung đề nghị Bộ này xem xét mở rộng các ngành nghề tiếp nhận thực tập sinh người Việt Nam trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ khách sạn, nhà hàng, nghề lái xe… là những ngành, nghề người lao động Việt Nam nhanh thích ứng, nâng cao được kỹ năng nếu qua đào tạo cơ bản. Bên cạnh đó, thẳng thắn đề nghị phía Nhật không đánh thuế 2 lần (thuế cư trú và thuế thu nhập) đối với thực tập sinh Việt Nam.

"Trong thời gian qua, thực tập sinh Việt Nam đã rất vất vả do chịu tác động, ảnh hưởng của dịch Covid -19, hiện nay lại bị giảm bình quân 30% thu nhập do tác động của tỷ giá đồng Yên nên lại càng vất vả hơn. Trong khi đó, Chính phủ Nhật Bản duy trì việc đánh 2 lần thuế đối với thực tập sinh thì thu nhập còn lại trên thực tế là rất thấp, khó đảm bảo được việc thu hút người lao động Việt Nam tham gia các chương trình của Nhật Bản", ông Đào Ngọc Dung nêu rõ.

Từ thực tế đó, ông Dung đề nghị xem xét cho thực tập sinh Việt Nam được hưởng các quy chế bình đẳng như áp dụng với một số quốc gia khác.

Giống như nhiều người Việt Nam, lần đầu tiên tôi biết đến sự tồn tại của “phản động ngoài đời thực” là qua báo đài của chính quyền. Đó là khoảng hơn mười năm về trước, khi những blogger đầu tiên bị bắt giữ vì tội “tuyên truyền chống nhà nước”.

Trước đó, trong suốt vài chục năm trời, “thế lực phản động” duy nhất tôi được nghe tới chỉ tồn tại trong những trang sách giáo khoa, nơi dày đặc các câu chuyện thiện ác đối đầu, mà vai thiện/ chính nghĩa luôn luôn là đặc quyền của phe ta/ Đảng Cộng sản, còn vai ác được dành cho tất cả những ai không chịu đứng cùng phe mình.

Tò mò khi thấy “phản động” bước ra đời thực từ trang sách, tôi mò mẫm tìm cách vượt tường lửa vào đọc những “trang web cấm”, các trang blog bị chính quyền chặn không cho người bình thường truy cập.

Chỉ sau vài tiếng ngụp lặn, sự tò mò tắt ngúm, nhường chỗ cho một cảm giác hụt hẫng ghê gớm.

“Mấy thứ này có gì hay ho đâu trời?!”, tôi tự hỏi.

Nếu không phải là chỉ trích, hay nói thẳng ra là “chửi” chính quyền, bằng đủ thứ ngôn ngữ hàng tôm hàng cá, thì cũng là những bài bình luận với logic lộn xộn, lẫn trong một mớ hổ lốn những loại “tin hành lang nhà bà tám” không bằng chẳng chứng.

So với những gì đọc được trên các trang báo uy tín nước ngoài hay những quyển sách tiếng Anh bí ẩn hấp dẫn, mà dạo đó chỉ vừa chập chững dạm bước tìm hiểu, đó quả là hai vũ trụ chứa đầy khác biệt.

Ngay đến những thứ được tung hô nhiều nhất trong “thế giới phản động”, như các bài viết của Trần Huỳnh Duy Thức, cá nhân tôi vẫn không tài nào thấy nó có gì đặc biệt so với vô vàn nguồn tri thức khác mình được tiếp cận.

Từ đấy, tôi mất dần hứng thú với “phản động”, và phần nào đồng ý với những luận điệu của phe chính quyền, kiểu “dân trí ở nước ta còn thấp”, hay “lựa chọn thay thế mà như này, chẳng thà cứ độc tài còn hơn”.

Phải mất nhiều năm sau đó, tôi mới dần nhận ra có những lỗ thủng rất lớn trong các luận điệu đó.

Lỗ hổng lớn nhất lại nằm trong chính cái đầu mình.

Tôi đã đặt sai câu hỏi ngay từ đầu.

Vấn đề không phải là “vì sao họ lại viết dở/ nhảm vậy”.

Câu hỏi phải là “vì sao người ta tự cho mình cái quyền bức hại người khác chỉ vì họ nói lên thứ không đúng ý mình?!”.

Càng tìm hiểu về thế giới, tôi càng nhận ra những gì đã và đang diễn ra ở Việt Nam quá ngược ngạo.

Tại đây, có vô số những kẻ phát ngôn theo kiểu “ngáo đá”, từ những người biểu tình bình thường ngoài đường cho đến các chính trị gia đầy quyền lực trong chính phủ. Họ ngáo từ lời nói đến hành động, đến mức nhiều lúc ta phải nghi ngờ mấy người này có “bình thường” không. Vậy nhưng không ai có quyền cấm cản bịt miệng họ.

Nếu tin rằng những gì họ nói, những thứ họ làm gây hại, người ta chỉ cần kiện ra tòa, trình bằng chứng về thiệt hại và lập luận của mình, để bồi thẩm đoàn và quan tòa quyết định. Nếu tin rằng quan tòa cũng ngáo, ta có thể kiện luôn quan tòa. Nếu tin rằng chính quyền ngáo, kiện chính quyền, hoặc đơn giản bầu cho những người khác lên thay.

Những ai tin rằng thể chế dân chủ tồn tại được ở Mỹ vì “dân trí họ cao” có lẽ không mấy khi tìm hiểu về lịch sử hay theo dõi tình hình hiện tại của nước này.

Một đặc tính xuyên suốt trong lịch sử hình thành của nước Mỹ là “loạn”, hay nói một cách tích cực là “đa dạng” (diversity).

Điều làm nước Mỹ vĩ đại chính là thứ “DNA loạn” đó. Họ sinh ra từ nó, lớn lên trong nó, chết đi với nó, và tái sinh cùng nó.

Có lẽ không có nơi nào trên thế giới mà đặc tính “đa dạng sinh học” trong tự nhiên lại được thể hiện sinh động trong xã hội loài người như tại đất nước này.

Nhưng đó không phải là độc quyền của nước Mỹ. Tôn trọng sự đa dạng, hay những thứ loạn ngược với ý của mình, là một bước tiến dài của tất cả những xã hội văn minh. Và nó cũng không phải sáng tạo độc đáo gì của loài người. Đó chỉ là nhân loại rốt cuộc cũng nhìn ra một sự thật, rằng sự sống chỉ có thể tồn tại và bùng nổ nhờ sự đa dạng của tất cả các giống loài cùng cộng hưởng trong điệu vũ tiến hóa vĩ đại của tự nhiên.

Người ta phải đặt câu hỏi, nếu “dân trí ngáo” cỡ Mỹ mà cũng tiến được bước dài như vậy, hà cớ gì “dân trí thấp” của Việt lại phải đứng yên một chỗ, thậm chí bước lùi so với thế giới văn minh?!

Càng tìm hiểu về thế giới bên ngoài, tôi càng tin rằng “dân trí thấp” không phải là vấn đề của “phản động”. Nó thậm chí cũng không phải là vấn đề của chính quyền cộng sản.

Nó là con ngáo ộp chưa bao giờ tồn tại, chỉ được vẽ ra để hù dọa những ai muốn bước lên phía trước.

Tôi bắt đầu không dám khinh thường “phản động” từ dạo ấy.

Làm thế nào có thể yêu cầu những “phản động gia” phải viết hay viết đúng khi họ phải viết trong tình cảnh thông tin thì giấu giếm, sách vở bị cấm đoán, tự do báo chí không tồn tại, và bản thân luôn có thể bị người khác ập vào còng đầu đè cổ?

Làm thế nào có thể yêu cầu những người như Trần Huỳnh Duy Thức phải thấu suốt sáng tạo như các tác giả nước ngoài khi họ phải chịu cảnh tù đày, không được tiếp cận với tin tức cập nhật và tri thức tự do bên ngoài?

Và quan trọng nhất, làm thế nào có thể yêu cầu người khác viết theo ý mình, khi họ chỉ đơn giản nói lên những thứ trong đầu họ.

Họ không có nghĩa vụ gì với tôi hay bất kỳ ai khác.

Nếu muốn thấy một thứ hay ho thú vị, hay đúng như ý muốn, tại sao không tự mình viết ra?!

Sự khinh thường nhường chỗ cho tự vấn.

Ngay cả khi đọc thấy những thứ bậy bạ vớ vẩn, thay vì xem thường những người tạo ra nó, tôi tự hỏi mình đã/ đang/ có thể làm gì để chống lại những thứ đó.

Cảm giác khinh thường biến mất hoàn toàn khi cách đây vài năm, vô tình đọc được một bài viết trên Luật Khoa về sự kiện biểu tình phản đối Luật Đặc khu và Luật An ninh mạng.

Hóa ra “phản động” cũng có thể viết ra những thứ logic đầy đặn, chừng mực tỉnh táo và hấp dẫn không kém gì những trang báo nước ngoài mình đọc được.

(Tất nhiên nghĩ lại, Luật Khoa không phải nơi duy nhất có những thứ như vậy. Ngay cả thời điểm mười năm trước việc tôi không đọc được những thứ có ích từ “phản động” cũng hoàn toàn là do bản thân quá thiếu kỹ năng tìm kiếm thông tin.)

Từ xem thường, tôi chuyển sang khâm phục tất cả những ai dám nói lên sự thật.

Với những ai theo “phe chính quyền”, tôi cũng không có cảm giác khinh thường như rất nhiều người “theo phe dân chủ” ở Việt Nam đang có.

Trong lịch sử tiến hóa của tất cả các loài sinh vật trên trái đất, hùa theo những cá thể có quyền lực luôn là một lựa chọn khôn ngoan để tồn tại.

Con người, sinh vật tự cho mình là thông minh nhất quả đất, càng không phải là ngoại lệ.

Có quá nhiều lý do để người Việt hùa theo chính quyền cộng sản. Đảm bảo lợi ích cá nhân, bản thân chưa phải là nạn nhân trực tiếp của bất công, sợ bị tấn công nếu lên tiếng đấu tranh, hoặc im lặng ngồi hàng rào, thấy phe nào mạnh thì nhảy sang phe đó, đằng nào cũng có người khác ra mặt đấu tranh hộ mình rồi…

Bất kể là lý do gì, họ cũng không hề ngu dốt, mà ngược lại, rất khôn ngoan để biết sinh tồn.

Alan Watts trong các bài giảng về nguồn gốc đạo Phật đã từng diễn giải, cách thức cúi đầu chào nhau mà người Ấn và người Nhật dùng là sự thể hiện lòng kính trọng, không phải với bản thân người đó, mà là với vai diễn mà họ thể hiện trong đời.

Mỗi người đều mang trong mình một vai diễn khác nhau trên sân khấu vĩ đại của cuộc đời. Mọi bài học về sự sống, ta đều học được từ tất cả những vai diễn của bản thân và người khác.

Tất nhiên tôi sẽ có cảm tình hơn nhiều với những người thuộc vai (ủng hộ) cộng sản nếu như họ chịu lên tiếng nói sự thật, bảo vệ những ai bị bức hại, hay chỉ đơn giản là không hùa theo bạo quyền để đàn áp người khác.

Nhưng đó là lựa chọn cuộc đời của họ, và tôi không chịu trách nhiệm về điều đó.

Tôi chỉ có thể chịu trách nhiệm về lựa chọn của chính mình.

Đó cũng là lý do tôi không có cảm giác “xấu hổ” hay “chán nản” mà nhiều người thốt ra khi phát hiện “phong trào dân chủ” của Việt Nam có đủ chuyện tào lao mía đao: bất đồng nói xấu, bịa đặt chụp mũ, thậm chí ra tay hãm hại nhau, hay tranh giành danh tiếng lẫn quyền lợi vật chất…

Nếu cần phải thấy xấu hổ hay chán nản, tôi chỉ có thể xấu hổ và chán nản với chính bản thân. Và rồi tự mình, chứ không ai khác, phải nghĩ ra những việc có thể làm để thoát khỏi thứ cảm giác đó.

Những chuyện xấu của “phong trào dân chủ” cũng chưa bao giờ làm tôi ngạc nhiên.

Dưới góc nhìn cá nhân, tôi luôn xem cộng sản tư sản hay phụ sản phụ khoa, cánh tả cánh hữu hay cánh gà cánh vịt, đều chỉ là những cái mũ không hơn không kém. Người ta chụp những chiếc mũ đó lên và diễn những vai họ lựa chọn. Gỡ bỏ những chiếc mũ ra, đầu ai cũng có tóc (hoặc ít tóc) như nhau.

Điều thú vị là trong khi rất tỉnh táo không chụp mũ cho những người mình quan tâm, chúng ta lại nhanh nhảu trùm các loại mũ lên đầu phần còn lại để đánh giá chung một rổ.

Đó quả là lựa chọn tiện lợi dễ dàng của những cái đầu biếng nhác, tự huyễn hoặc rằng mình đã hiểu rõ mọi thứ trên đời.

Ở một khía cạnh khác, “chuyện xấu” không phải lúc nào cũng xấu.

Thomas Edison không chế ra bóng điện chỉ trong vài lần thử nghiệm đầu tiên. Ông mất cả ngàn lần thí nghiệm thất bại.

Nhưng “thất bại” là từ mà người khác nói. Bản thân Edison cho rằng “tôi không thất bại, chỉ là đã tìm ra 10.000 cách khác nhau không tạo ra bóng đèn mà thôi.”

Tạo ra một chiếc bóng điện đơn giản đã vậy, một thứ phức tạp như vận động cho dân chủ ở Việt Nam nếu không va vấp trầy trật hàng trăm, hàng ngàn lần mà đòi hỏi thành công thì liệu có đang ngủ mớ quá không?

Những người muốn dân chủ có lẽ đều cần học qua vài khóa về kinh doanh, đặc biệt là start-up (khởi nghiệp), để biết rằng “thất bại” không chỉ là một chuyện bình thường, thậm chí hiển nhiên, mà còn là điều người ta hoan hỉ đón chờ và tiếp nhận.

Ở đó, cũng không ai gọi đấy là “thất bại” (failure), mà là “thử nghiệm” (trial) và “sửa sai” (error). Càng lặp đi lặp lại nhiều thử nghiệm – sửa sai, ta càng tìm ra phương thức tốt nhất để giải quyết vấn đề.

Điều quan trọng hơn cả là vòng lặp này không có điểm dừng. Vấn đề mới luôn luôn phát sinh, và ta luôn cần lặp lại quy trình thử nghiệm – sửa sai để tiếp tục giải quyết nó.

Ai đã từng quan sát cách một đứa trẻ tập đi sẽ dễ dàng nhận ra điều này. Nếu không có hàng trăm lần chuệch choạc té ngã, một đứa trẻ không thể nào sử dụng thuần thục đôi chân của mình để bước đi. Quy trình lặp lại với việc học chạy, học nhảy, học nói, học chữ, học đạp xe, học bơi, học mọi thứ trên đời.

Nói cách khác, đứa trẻ học làm người thông qua vô số những vấp ngã.

Rất nhiều “người lớn” chúng ta, bằng một phương thức thần kỳ nào đó, lại quên mất đi bài học sơ khai này.

Những “thất bại” khi vận động dân chủ vì vậy là chuyện hiển nhiên đã, đang và sẽ luôn xảy ra.

Cách gọi “phong trào dân chủ” cũng là cách nói dễ gây hiểu lầm, nhất là với người Việt Nam.

“Phong trào” mang hàm ý là “nhiều người tham gia”. Trong khi đó “dân chủ” thực chất lại là chuyện rất cá nhân.

Khi tôi nói dân chủ, nó có nghĩa rằng “tôi làm chủ”. Khi bạn nói dân chủ, nó nghĩa rằng “bạn làm chủ”.

Dân chủ là mỗi người tự làm chủ cuộc đời mình.

Có hay không có người khác tham gia, số đông hay số ít, đảng này hay đảng nọ, đều không ảnh hưởng đến bản chất việc mỗi người tự làm chủ vận mệnh cuộc đời của chính mình.

Một khi chấp nhận nhìn thẳng vào gương để tìm người chịu trách nhiệm duy nhất cho cuộc đời mình, sẽ không còn lý do gì để khinh thường, xấu hổ hay chán nản vì việc làm của những người khác.

“Between the ideaAnd the realityBetween the motionAnd the actFalls the shadow“

(“Giữa lý tưởngVà hiện thựcGiữa mong muốnVà hành độngPhủ đầy một khoảng tối mênh mông”)

Bước qua và lấp đầy khoảng tối đó, không thể cứ mãi là chuyện của kẻ khác.

Nó phải là việc của chính mình.

Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.